THÔNG TIN Y KHOA | Tiền mãn kinh và mãn kinh

MÃN KINH

Đại cương

Mãn kinh tự nhiên là ngưng hành kinh do ngưng các hoạt động cơ bản của buồng trứng:

  • Số lượng nang noãn trong buồng trứng không còn hoặc còn rất ít và không phát triển, trưởng thành, phóng noãn.
  • Do nang noãn không còn phát triển nên sự tổng hợp các nội tiết sinh dục từ các tế bào của nang noãn cũng ngưng.
  • Do đó, niêm mạc tử cung ngưng tăng trưởng và không thể bong ra để gây hiện tượng hành kinh mỗi tháng.

Trước khi ngưng hành kinh, thường ở một số phụ nữ có xuất hiện một số triệu chứng, một số thay đổi như chu kỳ ngắn lại hoặc dài ra, lượng kinh có thể ít, rất ít, hoặc nhiều, rất nhiều, kéo dài hơn… nên rất khó xác định chính xác thời điểm ngưng hành kinh hẳn. Theo quy ước, chỉ chẩn đoán là mãn kinh nếu một phụ nữ ngưng hành kinh 12 tháng liên tiếp. Tuy nhiên, nếu người phụ nữ bị cắt bỏ tử cung mà 2 buồng trứng vẫn được bảo tồn thì dù không có hành kinh nhưng chưa phải mãn kinh. Trong trường hợp này, muốn chẩn đoán “mãn kinh” cần dựa vào triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm FSH.

Do khó xác định thời điểm mãn kinh một cách chính xác, người ta thường dùng từ “thời kỳ quanh mãn kinh” khi muốn nói về thời điểm xảy ra các triệu chứng do các thay đổi thể chất, tâm sinh lý… của mãn kinh.

Mãn kinh có thể do phẫu thuật cắt bỏ hai buồng trứng, hay xạ trị gây ra. Loại mãn kinh này xảy ra đột ngột còn mãn kinh tự nhiên diễn ra từ từ, qua vài tháng đến vài năm.

Tuổi mãn kinh

Tuổi thọ loài người không ngừng tăng lên. Số người trên 60 tuổi đã tăng lên gấp đôi từ năm 2000 đến 2005, từ 590 triệu lên 1 tỷ, trong đó, phụ nữ chiếm số đông hơn vì tuổi thọ cao hơn. Do đó, số phụ nữ mãn kinh ngày càng nhiều hơn.

Tuổi mãn kinh trung bình ở các nước phát triển là 51-52 tuổi.

Ở Việt Nam, tuổi thọ của phụ nữ năm 2010, theo Tổng Cục Thống Kê, khoảng 72,4. Theo một số các nghiên cứu, tuổi mãn kinh trung bình của phụ nữ Việt Nam là 48-49. Như vậy, sau mãn kinh, phụ nữ còn sống trung bình được 25 năm nữa. Các triệu chứng cơ năng của thời kỳ quanh mãn kinh và một số bệnh lý thường xảy ra ở độ tuổi này, có thể do mãn kinh hoặc không, có thể làm cho chất lượng cuộc sống của phụ nữ giảm xuống. Chúng ta cần giúp họ hiểu biết hơn về các vấn đề sức khỏe của lứa tuổi này để họ có thể tự bảo vệ sức khỏe và đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống.

Tuổi mãn kinh đã được lập trình sẵn theo di truyền cho từng người, nhưng cũng có một số yếu tố làm thay đổi:

  • Tình trạng kinh tế-xã hội thấp có thể làm mãn kinh sớm hơn.
  • Suy dinh dưỡng và chế độ ăn chay trường thường đưa đến mãn kinh sớm.
  • Chỉ số khối cơ thể cao sẽ làm chậm mãn kinh.
  • Sinh nhiều con lại làm mãn kinh chậm hơn.
  • Hút thuốc lá làm tuổi mãn kinh sớm hơn 2, 3 năm.
  • Chủng tộc hình như cũng có ảnh hưởng trên tuổi mãn kinh.
  • Sống trên vùng cao có thể mãn kinh sớm; người ta thấy phụ nữ các bộ tộc sống trên đỉnh Himalaya hay Andes mãn kinh sớm hơn 1-5 năm.
  • Phụ nữ đã bị cắt tử cung với 2 buồng trứng được bảo tồn (chừa 2 phần phụ) sẽ mãn kinh sớm hơn 3,7 năm so với tuổi mãn kinh trung bình.

Nói chung, đến 58 tuổi thì khoảng 97% phụ nữ đã bước qua tuổi mãn kinh.

Mãn kinh sớm

Theo định nghĩa chung, mãn kinh trước 40 tuổi được coi là mãn kinh sớm do suy buồng trứng sớm. Mãn kinh sớm chiếm tỷ lệ khoảng 5% đến 10% số phụ nữ có triệu chứng vô kinh thứ phát. Ước tính có khoảng 0,3% đến 0,9% phụ nữ bị mãn kinh sớm.

Nguyên nhân mãn kinh sớm

  • Do cắt bỏ 2 buồng trứng trong phẫu thuật hoặc do xạ trị vùng chậu hay hóa trị liệu.
  • Di truyền: người ta quan sát thấy tỷ lệ suy buồng trứng và mãn kinh sớm cao hơn và giống nhau ở các cặp sinh đôi cùng trứng, khoảng 5%.
  • Bất thường thiếu enzyme như bệnh galactosemia hoặc thiếu men 17-hydroxylase.
  • Nguyên nhân miễn dịch: thường là do tự miễn, cơ thể có kháng thể chống lại các tế bào hạt của nang noãn. Chưa xác định được cơ chế. Người ta thấy rằng, tuyến ức (thymus) rất cần thiết cho chức năng buồng trứng được tiến hành bình thường. Suy buồng trứng sớm gây mãn kinh sớm thường kết hợp với hội chứng thiểu sản tuyến ức.
  • Bất thường trục hạ đồi-tuyến yên: suy buồng trứng do nguyên nhân ở trung ương, có thể thử nghiệm bằng cách tiêm gonadotropin gây phát triển các nang noãn ở buồng trứng.
  • Nhiễm virus: chưa nghiên cứu nhiều vai trò của nhiễm virus trên mãn kinh sớm, nhưng người ta đã ghi nhận bệnh quai bị có thể làm viêm teo buồng trứng và mãn kinh sớm.
  • Không rõ nguyên nhân.

Mãn kinh sớm do suy buồng trứng sớm được chẩn đoán xác định bằng nồng độ cao của FSH và LH, định lượng ít nhất 3 lần trong vòng 4 tuần lễ.

Mãn kinh sớm thường gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe, như bệnh lý tim mạch, loãng xương và bệnh Alzheimer sớm. Tử vong của phụ nữ mãn kinh sớm do bệnh lý tim mạch tăng từ 2 đến 4 lần.

Xử trí mãn kinh sớm

1. Phụ nữ mãn kinh trước 30 tuổi cần được xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ và các kháng thể tự miễn. Ngoài ra, cần được siêu âm qua đầu dò âm đạo để xem kích thước buồng trứng với số lượng nang noãn thứ cấp.

2. Nhiều nghiên cứu quan sát và thực nghiệm lâm sàng cho thấy sử dụng nội tiết có tác dụng rất tốt trong trường hợp mãn kinh sớm để làm giảm tử vong do tim mạch. Hướng dẫn của Hiệp Hội Mãn Kinh Thế Giới khuyến cáo sử dụng estrogen (kèm với progestogen nếu còn tử cung) liều cao cho đến tuổi mãn kinh bình thường.

3. Nếu phụ nữ mãn kinh sớm còn muốn sinh con thì cần phải nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm - xin noãn.

Thời kỳ quanh mãn kinh

Đặc điểm

1. Dự trữ nang noãn thấp, nang noãn không phát triển đồng loạt, không có nang vượt trội rồi trưởng thành và phóng noãn đều mỗi tháng, nên lượng estradiol và progesterone thấp và dao động. Estradiol và progesterone thấp, FSH tăng cao ở đầu chu kỳ (khoảng ngày 2-3 chu kỳ) là những dấu hiệu cho biết dự trữ buồng trứng đã giảm thấp. Gần đây, nhiều nghiên cứu cho biết một chất khác, tên gọi là serum mullerian inhibiting substance (MIS) hay còn gọi là anti-mullerian hormone (AMH), có thể giúp xác định được dự trữ buồng trứng tốt hơn, thuận lợi hơn vì ít dao động hơn và có thể định lượng được tại bất cứ ngày nào của chu kỳ kinh nguyệt.

2. Cơ thể chưa thích nghi với tình trạng nội tiết thấp và dao động nên có nhiều triệu chứng cơ năng rất khó chịu trong một khoảng thời gian rồi từ từ giảm hẳn. Các triệu chứng gồm:

  • Rối loạn vận mạch: bốc nóng mặt-cổ, vã mồ hôi nhất là ban đêm
  • Đau nhức cơ thể
  • Triệu chứng tâm thần kinh như nhức nửa đầu, tim đập nhanh, bứt rứt, lo âu, dễ nóng giận, trầm cảm, thiếu tập trung…

Một số triệu chứng thường tự biến mất trong vòng vài tháng, thậm chí vài năm, khi đã qua giai đoạn quanh mãn kinh. Có khi vài ba tháng, vài ba năm sau lại xuất hiện trở lại nhưng với mức độ nhẹ hơn. Tuy nhiên, không phải phụ nữ nào đến tuổi mãn kinh cũng phải gánh chịu các triệu chứng khó chịu này. Tần suất xuất hiện cũng như mức độ nặng nhẹ của các triệu chứng xảy ra tùy từng người.

  • Những triệu chứng do tình trạng thiếu hụt estrogen gây ra sẽ còn tồn tại lâu dài, như âm đạo khô teo, giao hợp đau rát, tiểu không tự chủ, tiểu gấp, thường nhiễm trùng tiết niệu-sinh dục.

3. Rối loạn kinh nguyệt cũng là một triệu chứng thường gặp ở giai đoạn quanh mãn kinh. Chu kỳ kinh nguyệt có thể dài ra nhưng thường là ngắn lại, có khi chỉ 2 tuần lễ có kinh một lần. Lượng máu mất khi hành kinh cũng thay đổi, có thể rất ít hoặc thật nhiều, có khi rong kinh rong huyết kéo dài. Rối loạn kinh nguyệt thường do chu kỳ không phóng noãn.

4. Một số bệnh lý có tầm quan trọng hơn cũng bắt đầu xuất hiện: loãng xương hay thiếu xương, bệnh tim mạch, bệnh Alzheimer. Tỷ lệ một số các loại ung thư sinh dục nữ như ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung cũng tăng lên trong thời điểm này.

Những thay đổi về nội tiết quanh mãn kinh

Hội thảo về phân chia giai đoạn tuổi sinh sản (The Stages of Reproductive Aging Workshop - STRAW) năm 2001 đã đưa đến đồng thuận trong phân chia các giai đoạn quanh mãn kinh như sau:

Lần có kinh cuối cùng

Hội thảo về phân chia giai đoạn tuổi sinh sản (The Stages of Reproductive Aging Workshop - STRAW) đã hệ thống lại sự phân đoạn chia các tuổi sinh đẻ, quanh mãn kinh và mãn kinh, chủ yếu dựa vào các triệu chứng vận mạch. (Soules và cs., 2001)

Khoảng thời gian quanh mãn kinh được chia làm 2 giai đoạn, sớm và muộn, tùy theo chu kỳ còn đều hay không. Các thay đổi lâm sàng có thể diễn ra hằng năm trời, trong khi đó, buồng trứng nhanh chóng cạn dần dự trữ, và estrogen trong huyết thanh giảm.

Buồng trứng thay đổi rất nhiều từ sơ sinh đến mãn kinh. Số lượng noãn sơ cấp cao nhất là của thai nhi, vào khoảng tuần lễ thứ 20 thai kỳ. Sau đó, số noãn giảm dần đến khi sinh, chỉ còn độ 300.000 và tiếp tục giảm đến tuổi 35-37, trước mãn kinh. Từ năm 35 tuổi trở đi, số noãn giảm nhanh, đến lúc mãn kinh, chỉ còn khoảng 1.000 noãn đang trong quá trình teo đi.

Như vậy, từ nhiều năm trước mãn kinh đã có sự thay đổi, sự sinh sản khó khăn hơn vì dự trữ buồng trứng kém, chất lượng cũng không tốt - dù cho người phụ nữ vẫn còn hành kinh đều mỗi tháng.

Về nội tiết, từ những năm trên 35 tuổi, inhibin trong pha tăng trưởng nang noãn đã giảm, làm cho FSH tăng dần. Tổng hợp estrogen giảm muộn hơn, vào khoảng 6 tháng trước khi mãn kinh. Androgen cũng giảm, nhưng chậm hơn. Tế bào hạt nang noãn còn tiết ra activin để kích thích thụ thể FSH hoạt động. FSH tăng thì activin cũng tăng, kích thích nang phát triển to hơn, nhưng chỉ là phần chứa dịch nang, còn noãn lại teo đi làm giảm chất lượng của các nang noãn còn lại.

CÁC THAY ĐỔI CỦA CƠ THỂ VÀ MỘT SỐ BỆNH LÝ Ở PHỤ NỮ SAU MÃN KINH

Những thay đổi nội tiết sau mãn kinh

Khi người phụ nữ đã bước vào giai đoạn sau mãn kinh, có nhiều thay đổi trong hệ thống nội tiết

Biểu đồ 14.1. Nội tiết tuyến yên ở phụ nữ mãn kinh (màu đậm) so với nội tiết tuyến yên ở phụ nữ chưa mãn kinh, định lượng ngày 2-4 chu kỳ (màu nhạt) (Yen, 1977) (FSH follicle stimulating hormone, LH luteinizing hormone, PRL prolactin, TSH thyroid-stimulating hormone, GH growth hormone)
Hình 4. Nội tiết steroids ở phụ nữ mãn kinh (màu đỏ) so với phụ nữ chưa mãn kinh, định lượng ngày 2-4 chu kỳ (màu xanh) {Yen SSC. The biology of menopause. J Reprod Med 18:287, 1977}[ E1estrone; E2 estradiol; A androgen; T testosterone; DHEA dehydroepiandrosterone]

Biểu đồ 14.2. Nội tiết steroids ở phụ nữ mãn kinh (màu đậm) so với phụ nữ chưa mãn kinh, định lượng ngày 2-4 chu kỳ (màu nhạt) (Yen, 1977) (E1estrone, E2 estradiol, A androgen, T testosterone, DHEA dehydroepiandrosterone)

Trong thời gian quanh mãn kinh và mãn kinh, cơ thể có nhiều thay đổi, và tùy từng cá thể mà có biểu hiện trên lâm sàng nặng hay nhẹ. Thời điểm này cần có sự quan tâm của thầy thuốc để tư vấn và giáo dục sức khỏe cho cộng đồng, không chỉ về những triệu chứng cơ năng do ảnh hưởng của những thay đổi nội tiết khi mãn kinh, về bệnh tim mạch và loãng xương, mà còn về những bệnh lý của người cao tuổi như các loại ung thư sinh dục, các bệnh chuyển hóa.

Những thay đổi nội tiết trong thời gian mãn kinh quan trọng nhất là sự thiếu hụt estrogen. Hầu hết những thay đổi của cơ thể trong giai đoạn này là do thiếu hụt estrogen.

Ảnh hưởng trên hệ thần kinh

Estrogen có nhiều tác động lên não, ảnh hưởng đến tình trạng sống thoải mái của phụ nữ sau mãn kinh, nhất là về tri thức, tâm trạng và tính khí.

Triệu chứng thường gặp nhất ở phụ nữ mãn kinh là cơn bốc nóng mặt, cổ, tần suất có thể lên đến 60-85% và kéo dài từ vài tháng đến vài năm. Ngoài thiếu hụt estrogen, còn có thể có nhiều nguyên nhân khác như stress, cường giáp, u pheochromocytoma, u tụy… Những phụ nữ có cơn bốc nóng, thường có ngưỡng nóng, toát mồ hôi rất gần với ngưỡng lạnh.

Kèm với các cơn bốc nóng mặt cổ là vã mồ hôi ban đêm và mất ngủ. Cơn mất ngủ ban đêm lại kéo theo sự mệt mỏi, dễ nóng giận ban ngày, và nặng hơn, có thể suy nhược thần kinh - đặc biệt là ở những phụ nữ đã có triệu chứng suy nhược trước mãn kinh. Không chỉ thiếu hụt estrogen là nguyên nhân của tình trạng này, mà sự dao động nội tiết estrogen có vai trò rất quan trọng.

Nghiên cứu WISDOM (Women’s International Study of Long Duration Oestrogen after the Menopause) là một nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng thực hiện trên 3.721 phụ nữ từ 50 đến 69 tuổi ở Anh, Úc và New Zealand sử dụng 0,625 mg CEE/2,5-5mg MPA hoặc placebo - cho thấy sử dụng estrogen giảm được triệu chứng rối loạn vận mạch, mất ngủ, vã mồ hôi ban đêm, đau nhức khớp và cơ và khô teo âm đạo và rối loạn tiết niệu-sinh dục có ý nghĩa thống kê.

Ngoài ra, có thể điều trị rối loạn vận mạch, vã mồ hôi ban đêm bằng một số thuốc khác, nhất là các loại selective serotonin reuptake inhibitors (SSRIs) như Citalopram (Celexa), Fluoxetin (Prozac), Paroxetin (Paxil), Gabapentin (Neurontin).

Rối loạn tri thức ở phụ nữ sau mãn kinh (bệnh Alzheimer) có thể có 2 nguyên nhân: tuổi già và thiếu hụt estrogen. Bệnh Alzheimer thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh gấp 3 lần so với nam giới. Estrogen bảo vệ neurone (tế bào thần kinh) khỏi tác hại của oxy-hóa, giảm nồng độ trong huyết thanh của amyloid P (là glycoprotein thấy nhiều trong neurone của các bệnh nhân Alzheimer) và tăng cường tái tạo tăng trưởng các neurone, các synapse, đặc biệt là các tế bào hình sao ở tủy sống.

Nghiên cứu Baltimore cho thấy tỷ lệ giảm là 54%, nghiên cứu New York giảm 60% và nghiên cứu ở Ý giảm 72%. Nghiên cứu ở Cache County-Utah, USA khẳng định giảm 41% bệnh Alzheimer ở phụ nữ có sử dụng estrogen và giảm 83% ở những người sử dụng trên 10 năm.

Tuy nhiên, estrogen chỉ có tác dụng tốt, hiệu quả tránh bệnh Alzheimer nếu được bắt đầu sử dụng sớm sau hoặc trong độ tuổi quanh mãn kinh. Nghiên cứu WHI (Women’s Health Initiative) trên nhóm phụ nữ bắt đầu sử dụng estrogen từ 65 tuổi trở lên, không thấy được tác dụng có lợi của estrogen. MRI thực hiện cho nhóm phụ nữ này cho thấy họ đã bị thoái hóa não, teo não trước khi sử dụng estrogen. Nghiên cứu WHI trên một nhóm nhỏ phụ nữ sau mãn kinh, trẻ hơn, bắt đầu estrogen - điều trị sớm, khẳng định được tác dụng có lợi của nội tiết trên sự ngăn chặn teo não và rối loạn tri thức, trí nhớ.

Ảnh hưởng trên collagen

Collagen là một thành phần quan trọng của da, xương, rất quan trọng ở các cấu trúc nâng đỡ ở vùng chậu và cơ quan tiết niệu.

Khoảng 30% collagen ở da mất đi trong vòng 5 năm sau mãn kinh và sau đó, mỗi năm mất thêm 2% trong 10 năm. Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm cho da mỏng, nhăn, giảm mật độ xương có thể đưa đến loãng xương. Collagen giảm còn làm cho niêm mạc tiết niệu-sinh dục teo mỏng, dễ nhiễm trùng, tăng tỷ lệ sa tử cung và són tiểu. Niêm mạc âm đạo teo mỏng, khô làm cho giao hợp đau, rát. Điều trị bằng estrogen bôi âm đạo trên những bệnh nhân này có hiệu quả tốt. Estrogen còn giúp mau lành vết mổ, nhất là trên niêm mạc, có lẽ do tác dụng tăng thêm tổng hợp nội tiết tăng trưởng như TGF-β (transforming growth factor).

Ảnh hưởng trên hệ xương khớp

Thiếu hụt estrogen đã được chứng minh là một nguyên nhân làm giảm mật độ xương. Hiện tượng này xảy ra khi chu kỳ kinh nguyệt bắt đầu không đều trong giai đoạn quanh mãn kinh. Từ 1,5 năm trước mãn kinh đến 1,5 năm sau mãn kinh, mật độ xương giảm khoảng 2,5% mỗi năm, so với mức giảm 0,13%/năm giai đoạn tiền mãn kinh. Xương xốp mất xương nhiều hơn xương đặc.

Mật độ xương đạt đỉnh tối đa vào khoảng tuổi 20-30, chịu ảnh hưởng của nội tiết sinh dục. Mật độ đỉnh càng cao thì càng ít nguy cơ loãng xương sau mãn kinh, dù cho có giảm mật độ xương theo tuổi cao.

Estradiol cùng với nội tiết tăng trưởng (GH) và yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1) giúp trẻ ở tuổi dậy thì tăng gấp đôi mật độ xương và tiến dần đến đỉnh tối đa. Rối loạn kinh nguyệt do rối loạn nội tiết như vô kinh thứ phát do suy buồng trứng, suy dinh dưỡng và thiếu calci là những nguyên nhân làm đỉnh mật độ xương thấp, tăng nguy cơ loãng xương sau này.

Thụ thể estrogen hiện diện ở tế bào tạo xương, tế bào hủy xương và hốc xương. Cả 2 loại thụ thể ERα và ERβ đều có ở xương đặc trong khi xương xốp có chủ yếu là ERβ. Estradiol tác động trên xương chủ yếu là qua ERα.

Estrogen ngăn chặn chuyển hóa xương và giữ ổn định mức độ tạo xương, cân bằng hủy và tạo xương. Estrogen giảm số lượng tế bào hủy xương bằng cách tăng quá trình “chết tế bào”, giảm tuổi thọ của các tế bào này. Trên tế bào tạo xương, estrogen ngăn chặn quá trình “chết tế bào” do glucocorticoid khởi động.

Estrogen có tác dụng trên xương, về mặt sinh học phân tử, bằng cách:

 Ngăn chặn tác dụng của những cytokine gây viêm (interleukins- IK6, IK1, tumor necrosis factor-α (TNFα), colony-stimulating factors, prostaglandin E2) những cytokine làm tăng hủy xương.

 Tăng yếu tố tăng trưởng TGFβ (transforming growth factor-β) trong xương, ngăn chặn hủy xương.

Yếu tố di truyền cũng ảnh hưởng quan trọng trên khối xương, mật độ xương.

Chẩn đoán mật độ xương tốt nhất bằng Xquang hấp thu năng lượng kép DEXA (dual energy X-ray absorptiometry), xác định được mức độ thiếu xương và loãng xương. Theo quy ước, khi T-score bằng -1 đến -2,5 độ lệch chuẩn là thiếu xương và nhiều hơn -2,5 là loãng xương. Hiện nay, nhiều chỉ số sinh học có thể dùng để theo dõi hiệu quả điều trị, như NTX (N-telopeptide-type 1 collagen), CTX (C-telopeptide-type 1 collagen) cho biết mức độ hủy xương hoặc cho biết mức độ tạo xương Osteocalcin, PICP (procollagen type 1 C- terminal propeptide)…

Để điều trị loãng xương, Hiệp hội Mãn kinh Thế giới gợi ý sử dụng estrogen, trừ trường hợp có chống chỉ định. Nghiên cứu WHI cho thấy tỷ lệ gãy xương giảm khi sử dụng nội tiết thay thế nội tiết buồng trứng. Ngoài ra, các loại thuốc khác như SERMs (thuốc có tác dụng chọn lọc trên thụ thể estrogen), tibolone, biphosphonate, calcitonin, fluoride cũng có tác dụng điều trị loãng xương.

Khi đã sử dụng estrogen và các thuốc khác để điều trị loãng xương mà mật độ xương vẫn không tăng, cần xem lại:

  • Bệnh nhân có tuân thủ điều trị và uống đủ liều hay không? Định lượng estrogen-huyết thanh và/hoặc đo pH âm đạo.
  • Loại trừ các nguyên nhân gây loãng xương khác như:

Thiểu năng sinh dục,

Có sử dụng thuốc như heparin, thuốc kháng viêm corticoids, thuốc chống co giật, uống nhiều rượu…

Có bệnh mãn tính như gan, thận.

Có bệnh nội tiết như tăng glucocorticoid, cường giáp, cường cận giáp.

Dinh dưỡng thiếu calci, phosphate, vitamin D.

  • Theo dõi các chỉ thị sinh học để biết mức độ chuyển hóa xương trong khi điều trị.

Biện pháp dự phòng loãng xương gồm calci, vitamin D và hoạt động chân tay, theo hướng dẫn của Hiệp hội Loãng xương toàn quốc ở Hoa Kỳ 2008 và Tổ chức Y tế Thế giới.

Ảnh hưởng trên tim mạch

Bệnh lý tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ mãn kinh nhưng ít được quan tâm. Đa số bệnh tim mạch là do xơ vữa mạch máu. Yếu tố nguy cơ ở cả nam và nữ bao gồm: di truyền, huyết áp cao, hút thuốc lá, bệnh tiểu đường, mỡ trong máu tăng cao và béo phì. Tuy nhiên, ở tuổi dưới 40, nam giới có nguy cơ bị bệnh tim mạch gấp 2 lần nữ giới. Sự cách biệt này giảm đi với tuổi tác, nhất là sau mãn kinh.

Nhiều thay đổi các chất chuyển hóa tương tác lẫn nhau, gây nên xơ vữa mạch máu và bệnh tim mạch:

  • Hiện tượng co mạch làm các mảng xơ vữa dễ được tạo thành hơn.
  • Tái cấu trúc động mạc vành. Động mạch đáp ứng lại tình trạng xơ vữa bằng cách phình to lên, giữ cho lượng máu tới mô không giảm trong giai đoạn đầu, lâu dần, sinh ra tắc nghẽn và nhồi máu.

Khi các mảng xơ vữa to lên, nó sẽ không bám chắc vào thành mạch, có thể rời ra, di chuyển, gây biến chứng tắc nghẽn động mạch xung yếu như ở não, ở phổi và gây tai biến nghiêm trọng.

VẤN ĐỀ SỬ DỤNG NỘI TIẾT ĐIỀU TRỊ

(HORMONE THERAPY - HT)

Đây là một vấn nạn lớn hiện nay trên cả thế giới vì còn nhiều mâu thuẩn phải giải quyết để phụ nữ mãn kinh biết rõ bản thân mình có nên sử dụng nội tiết hay không và các nhà chuyên môn có mạnh dạn sử dụng cho bệnh nhân của mình hay không.

Lịch sử của vấn đề điều trị nội tiết hay liệu pháp nội tiết thay thế ở phụ nữ mãn kinh

Hai trăm năm về trước, người ta chưa biết gì về nội tiết. Cuối thế kỷ 19, rãi rác có vài nhà hóa học và vài nhà sinh lý học cố gắng chiết suất các chất nội tiết từ các tuyến, từ mật và từ nước tiểu của động vật. Một vài nhà lâm sàng còn phiêu lưu hơn, đã dùng các chất trích ly đó để điều trị cho bệnh nhân, thí dụ chất trích ly từ tuyến giáp để điều trị thiểu năng tuyến giáp và rồi từ “nội tiết học” ra đời. Nội tiết có nghĩa là chất được tuyến tiết ra nhưng đổ thẳng từ bên trong tế bào tuyến ra hệ tuần hoàn để đi đến các tế bào đích.

Charles Edouard Brown Sequard là người đầu tiên sử dụng chất trích ra từ tinh hoàn của chó và công bố rằng, ông ta cảm thấy trẻ lại. Từ đó, ông nghĩ rằng, chất trích ra từ buồng trứng của động vật có thể sử dụng cho phụ nữ để tăng thêm sức sống cho phụ nữ lớn tuổi. Cho đến năm 1897, mới có chất trích ly từ buồng trứng điều trị có hiệu quả cơn phừng bốc nóng mặt cổ.

Trải qua nhiều năm và nhiều nhà khoa học như Madison, Allen, Doisy đến năm 1929, mới có được vài milligram chất chiết suất từ một khối lượng lớn nước tiểu phụ nữ mang thai, được đặt tên là estrogen, là chất gây ra hiện tượng estrus (thời kỳ mà con vật cái dễ chấp nhận con đực, quan sát được ở loài vật). Công trình này được báo cáo tại hội nghị quốc tế lần I về “Chuẩn hóa các nội tiết sinh dục” diễn ra tại London năm 1932.

Đến hội nghị lần II, George W. Corner cùng với Williard Myron Allen báo cáo về chất trích ly được từ hoàng thể của 50.000 con lợn cái để có vài milligram. Corner và Allen đề nghị đặt tên là Progestin.

Những năm 1930, công ty Wyeth Ayerst chiết suất được estrogen từ nước tiểu của phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, do khó khăn trong thu mua nguyên liệu, mùi hôi khó chịu, Gordon A. Grant, một nhà hóa học của công ty này đã sử dụng nước tiểu của ngựa, bắt đầu từ năm 1939. Sản phẩm có được là một hợp chất muối sulfat ester của nhiều loại estrogen, được sử dung từ năm 1941 ở Canada và 1942 ở Hoa kỳ với tên gọi là Premarin, hàm lượng 1,25 mg để điều trị các triệu chứng cơ năng của mãn kinh.

Càng về sau, trên thế giới càng có nhiều loại estrogen khác để điều trị cho phụ nữ mãn kinh, đồng thời, người ta còn thêm vào chất progestogen (hay progestin như tên gọi từ ban đầu) để giảm tăng sản nội mạc tử cung và ung thư nội mạc tử cung ở những phụ nữ còn tử cung.

Các loại nội tiết hiện đang được sử dụng và đường dùng

Estrogens

Trên thị trường Việt Nam hiện có các loại estrogen với độ mạnh (bảng 14.2).

Bảng 14.2. Estrogen và liều tác dụng sinh học

Loại estrogen

Liều có tác dụng sinh học

Conjugated equine estrogens

0,625mg

Micronized estradiol

1,0mg

Ethinyl estradiol

2-10µg

Estradiol valerate

1,0mg

Esterified estrogen

0,625mg

Estriol

----

Estradiol dán da

50µg

Biết độ mạnh hay yếu của estrogen rất quan trọng để cho toa, ví dụ, ethinylestradiol rất mạnh, có nhiều khả năng tăng độ nhớt của máu, estriol chỉ gắn được với 20-30% thụ thể estrogen so với estradiol và được thanh thải nhanh. Estriol còn là một chất chuyển hóa của estrone và estradiol. Sử dụng estriol ở liều bình thường không dự phòng được loãng xương. Thực nghiệm trên chuột cho thấy estriol có tính đối vận với estradiol trên ung thư vú do một số hóa chất gây ra. Estradiol valerate gần với estrogen thiên nhiên, chiết xuất từ đậu nành.

Các estrogen kể trên có loại sử dụng qua đường uống, có loại dán da hay thoa da, có loại sử dụng đường đặt âm đạo.

Estrogen uống phải đi ngang qua gan để chịu biến đổi qua gan rồi mới đến cơ quan hay tế bào đích. Estrogen qua da hay qua đường âm đạo có thể ngấm thẳng vào hệ tuần hoàn để đến cơ quan hay tế bào đích nên tránh được tác dụng ban đầu của gan.

Hiện nay, các miếng dán da có cải tiến để tránh phản ứng gây viêm da cho phụ nữ các nước vùng nhiệt đới. Mỗi ngày miếng dán thải ra qua da 14 đến 100µg estradiol.

Estrogen uống đi ngang qua gan trước khi đến cơ quan đích, ảnh hưởng đến sự tổng hợp các proteins tác dụng trong đông máu, do đó không chỉ định sử dụng estrogen uống cho phụ nữ có tiền sử viêm tắc mạch máu.

Cả hai estrogen đường uống và qua da đều làm giảm cholesterol toàn phần, LDL cholesterol và lipoprotein (a). Estrogen uống làm tăng HDL cholesterol nhiều hơn estrogen qua da nhưng cũng làm tăng triglycerides trong khi estrogen qua da không tăng.

Về các chất chỉ thị sinh học của viêm: estrogen uống làm tăng CRP còn estrogen qua da không tăng. Một nghiên cứu theo dõi 346 phụ nữ uống nội tiết cho thấy, CRP tăng nhưng chỉ có những người có interleukin-6-IL6- tăng thì mới có ảnh hưởng đến bệnh tim mạch sau này. Nghiên cứu WHI cũng khẳng định, CRP tăng khi sử dụng estrogen uống không làm tăng nguy cơ tim mạch.

Về tỷ lệ nhồi máu cơ tim: cả hai đường sử dụng estrogen đều làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim.

Đối với phụ nữ có bệnh chuyển hóa như tiểu đường: estrogen dán da không ảnh hưởng đến các chỉ số xét nghiệm theo dõi diễn tiến của bệnh. Cả hai đường sử dụng estrogen đều cải thiện tình trạng mỡ bụng dày, giữ đường huyết ổn định và giảm đề kháng insulin nên giảm được sự xuất hiện bệnh tiểu đường type 2.

Về nguy cơ ung thư vú: CEE/MPA giảm 26% insulin-like growth factor-1 (IGF-1) và tăng 96% SHBG. IGF-1 cao và SHBG thấp thường kèm với nguy cơ ung thư vú cao. Một nghiên cứu bệnh-chứng của các nhà khoa học Đức trên 3.593 phụ nữ sử dụng nội tiết sau mãn kinh cho thấy, tỷ lệ ung thư vú không tăng. Tuy nhiên, nghiên cứu này không phải là một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng nên chưa cho phép chúng ta đưa ra kết luận chắc chắn.

Về ung thư đại-trực tràng: theo các nghiên cứu, kể cả WHI, estrogen uống hay qua da đều làm giảm tỷ lệ ung thư đại tràng và trực tràng. Nếu sử dụng estrogen dán da mà không kèm theo progestin, tác dụng có ích này còn cao hơn.

Nói chung, nên sử dụng estrogen dán da cho các trường hợp sau:

1. Phụ nữ mãn kinh có nguy cơ cao bị viêm tắc tĩnh mạch.

2. Phụ nữ có triglycerides cao sẵn hay cao sau khi uống nội tiết.

3. Phụ nữ béo phì có các bệnh chuyển hóa.

Estrogen dán da nên chỉ định thận trọng đối với phụ nữ có hút thuốc hoặc cao huyết áp hay có rối loạn tình dục.

Ngoài hai đường sử dụng trên, estrogen còn có thể sử dụng qua đường âm đạo (FemRing, MenoRing), mỗi ngày tiết ra khoảng 50 đến 100µg estradiol acetate trong 3 tháng. Estradiol acetate là một chất tiền nội tiết, bị thủy phân nhanh chóng trong âm đạo thành estradiol, vào máu, tác động lên toàn thân giống như estrogen uống hay dán da (hoặc gel hay dung dịch thoa da).

Không cần thiết phải theo dõi nồng độ estrogen hay FSH trong khi sử dụng estrogen trong mãn kinh để thay thế hoặc điều trị những triệu chứng mãn kinh.

Progestogen

Một nguyên tắc khi sử dụng nội tiết ở phụ nữ mãn kinh là, khi tử cung còn nguyên vẹn, thì phải sử dụng progestogen kèm theo estrogen để tránh tăng sản nội mạc tử cung và ung thư nội mạc tử cung.

Lúc đầu, estrogen và progestogen kết hợp theo chu kỳ, giống như chu kỳ tự nhiên. Khi ngưng nội tiết, 80-90% phụ nữ có xuất huyết âm đạo giống như hành kinh, gây bất tiện cho người sử dụng. Do đó, progestogen được kết hợp liên tục với estrogen, mỗi viên nội tiết uống hằng ngày đều có estrogen và progestogen. Qui trình này giúp cho 80-90% phụ nữ sẽ không còn bị xuất huyết âm đạo sau 12 chu kỳ sử dụng thuốc và cũng tránh được tăng sản nội mạc tử cung hiệu quả hơn.

Progestogen sau khi vào cơ thể, nhất là progesterone dạng mịn, sẽ được chuyển hóa thành allopregnanolone và pregnanolone, có tác dụng gây buồn ngủ - do đó nên khuyên uống vào buổi tối, trước khi đi ngủ.

Một số tác dụng phụ của progestogen có thể gặp là:

  • Căng đau vú: thường gặp ở 28,7% người sử dụng nội tiết estrogen kết hợp với progesterone hoặc medroxyprogesterone acetate.
  • Phù do tác dụng giữ nước của progestogen.
  • Trầm cảm hoặc nhẹ hơn, buồn bã, cáu gắt, bứt rứt.

Một số progetogen có mặt trên thị trường hiện nay ở Việt Nam, riêng lẻ hoặc kết hợp với estrogen (bảng 14.3)

Drospirenone là dẫn xuất của spironolactone, là loại progestogen mới, giống với progesterone thiên nhiên nhất, có tính kháng estrogen, kháng androgen và kháng mineralocorticoids, tăng thải nước và muối sodium, không làm tăng thể trọng, có lợi cho tim mạch, sử dụng kết hợp với estradiol điều trị các triệu chứng mãn kinh phù hợp với lứa tuổi này.

Progesterone có dưới dạng tiêm, uống, gel thoa da, que cấy dưới da, viên hoặc gel đặt âm đạo. Progesterone đặt âm đạo sẽ ngấm qua niêm mạc âm đạo, cổ tử cung, vào tử cung và nội mạc tử cung nhanh với nồng độ cao, có tác dụng trực tiếp lên cơ và nội mạc tử cung mà không cần qua gan. Một lượng rất ít progesterone đặt âm đạo vào huyết thanh so với đường uống hay tiêm nên ít gây tác dụng phụ toàn thân.

Bảng 14.3. Một số progestogen có mặt trên thị trường Việt Nam ở dạng riêng lẻ hoặc kết hợp

 

Progesterone

Viên

100 hoặc 200mg

Dẫn xuất 21-carbon

Medroxyprogesterone actate

5,0mg

 

Megestrol acetate

5,0mg

 

Cyproterone acetate

1,0mg

 

Dydrogesterone

10,0 mg

19-Nor Pregnane

Trimegestone

0,0625 – 0,50mg

 

Promegestone

0,5mg

 

Nomegestrol

5,0mg

 

Nomegestrol acetate

3,75 – 5,0mg

Nhóm19-Nortestosterone

 

 

Ethinylated

Norethindrone

0,7 – 1,0 mg

 

Norethindrone acetate

1,0mg

 

Levonorgestrel

0,075mg

 

Desogestrel

0,15mg

 

Norgestimate

0,09mg

 

Gestodene

0,20mg

Dẫn xuất Spironolactone

Drospirenone

2,0mg

Một dạng đặc biệt của progestogen là dụng cụ tử cung có chứa levonorgestrel, tiết ra 10µg levonorgestrel trong 24 giờ, có hiệu quả bảo vệ nội mạc tử cung tránh được tăng sản và ung thư. Progestogen đặt âm đạo có tác dụng tại chỗ, không làm giảm các tác dụng có lợi của estrogen trên lipids - huyết thanh. Trong 6 tháng đầu sau khi đặt dụng cụ tử cung có levonorgestrel, có thể có xuất huyết âm đạo bất thường. Sau 12 tháng, khoảng 60-70% người sử dụng sẽ vô kinh. Loại dụng cụ tử cung này có thể có tác dụng đến 10 năm.

Một số các trường hợp phụ nữ mãn kinh, đã cắt tử cung rồi nhưng vẫn cần sử dụng progestogen kèm với estrogen:

1. Chỉ định cắt tử cung là lạc nội mạc tử cung: đã có trường hợp ung thư tuyến nội mạc tử cung xảy ra trên phụ nữ có lạc nội mạc tử cung vùng chậu được sử dụng estrogen đơn thuần. Ngoài ra, cũng có trường hợp thận ứ nước do u tuyến nội mạc tử cung phát triển trên một phụ nữ đã cắt tử cung và hai phần phụ vì lạc nội mạc tử cung, được cho sử dụng estrogen đơn thuần.

2. Phụ nữ đã cắt tử cung bán phần, có thể một ít nội mạc tử cung còn sót lại sẽ bị tăng sản hoặc ung thư.

3. Phụ nữ vừa bị cắt tử cung và hai phần phụ vì ung thư nội mạc tử cung.

4. Phụ nữ đã được phẫu thuật điều trị u dạng nội mạc tử cung ở buồng trứng.

Androgens

Sau mãn kinh, sự tổng hợp androgen cũng giảm xuống nhưng chậm hơn so với estrogen. Ngoài ra, do SHBG giảm nên testosterone tự do tăng nên tác dụng sinh học tăng, sự thiếu hụt androgen không quan sát được rõ.

Một số phụ nữ mãn kinh có các triệu chứng cơ năng nặng nề như đau nhức, trầm cảm đã được điều trị bằng estrogen liều cao vẫn không thuyên giảm. Testosterone chứng tỏ có hiệu quả trong trường hợp này. Testosterone còn điều trị giảm ham muốn quan hệ tình dục ở phụ nữ mãn kinh.

Testosterone không bảo vệ được nội mạc tử cung nên cần sử dụng kèm progestogen với estrogen dù đã có androgen. Testosterone còn có thể được thơm hóa ở mô ngoại vi, thành estrogen, nên có thể gây xuất huyết âm đạo bất thường, tuy chưa có trường hợp nào ung thư nội mạc tử cung trong khi sử dụng testosterone.

Testosterone không điều trị được cơn bốc nóng mặt cổ, không dự phòng được loãng xương.

Nghiên cứu NHS (Nurses’ Health Study) cho thấy, phối hợp estrogen-testosterone cho phụ nữ mãn kinh làm tăng tỷ lệ ung thư vú lên hai lần.

Chưa có đủ nghiên cứu để đảm bảo sử dụng testosterone lâu dài là an toàn đối với phụ nữ mãn kinh.

Testosterone có thể được sử dụng ở nhiều dạng: viên uống (methyltestosterone), kem thoa da, tiêm.

SERMs (Selective Estrogen Receptors Modulators)

  • Gồm các loại thuốc có tác dụng chọn lọc trên thụ thể estrogen, có thể vừa là đồng vận đối với mô xương nhưng đối vận đối với tuyến vú.
  • Có nhiều loại SERMs: raloxifene, tamoxifene, Iasofoxifene, droloxifene…
  • Tác dụng chủ yếu trên phụ nữ mãn kinh: dự phòng gãy xương (đốt sống), giảm tỷ lệ ung thư vú, không gây tăng sản hay ung thư nội mạc tử cung (ngoại trừ tamoxifene), chưa chứng minh được có tác dụng có lợi cho tim mạch.
  • SERMs cũng có tác dụng phụ tăng viêm tắc tĩnh mạch tương tự như estrogen.

Tibolone

Tibolone là một loại thuốc đặc biệt sử dụng cho phụ nữ mãn kinh, cùng lúc vừa có tác dụng như estrogen, progestogen và androgen. Tác dụng này có chọn lọc trên mô, giống như SERMs.

Tibolone qua gan và ruột, được chuyển thành 3 chất đồng phân: 3β-OH, 3α-OH và delta 4.

Hai chất đồng phân 3β-OH và 3α-OH có tác dụng đồng vận với estrogen, gắn với thụ thể estrogen (ER) nhưng với thụ thể α estrogen (ERα) nhiều hơn ERβ.

Chất đồng phân delta 4 đến nội mạc tử cung gắn với thụ thể progesterone, bảo vệ nội mạc tử cung khỏi tác dụng của estrogen, giống tác dụng của một progestogen.

Tibolone còn có tác dụng giống như một androgen, tăng đáp ứng tình dục ở phụ nữ mãn kinh. Tác dụng này có thể do tác dụng nam hóa trực tiếp của chất đồng phân delta 4 nhưng cũng có thể do tăng testosterone tự do trong huyết thanh. Chất đồng phân delta 4 tác dộng lên gan, làm giảm 50% SHBG, cho nên, khi điều trị với tibolone, lượng testosterone toàn phần giảm nhưng lượng testosterone lại tăng cao, có tác dụng sinh học. Như androgen, tibolone giúp phụ nữ mãn kinh có khí sắc tốt hơn.

Tibolone 2,5 mg/ngày làm giảm 20% HDL-cholesterol, giảm 10% cholesterol toàn phần và 20% triglycerides còn LDL-cholesterol không giảm hoặc giảm rất ít. Tibolone không gây tăng huyết áp.

Trong khi điều trị lạc nội mạc tử cung hoặc u xơ tử cung bằng GnRH đồng vận, người ta kèm thêm tibolone (add-back) và thấy bệnh nhân không bị bốc nóng mặt cổ, không ngăn cản tác dụng của GnRH trên u xơ.

Tác dụng của tibolone trên vú: Vú nhận tác động của estrogen từ nơi khác đến nhưng cũng đồng thời tự sản xuất ra estrogen nhờ có các enzymes sulfatase, aromatase, 17β-hydroxysteroid dehydrogenase, đồng thời tại tuyến vú, estrogen được chuyển sang dạng sulfates nhờ enzyme sulfotransferase. Như vậy, trong vú có 2 hiện tượng nhằm tạo ra estrogen:

  • Sự thơm hóa chuyển androgen thành estrogen. Hiện tượng này không quan trọng trong tuyến vú.
  • Hiện tượng quan trọng hơn là chuyển estrone sulfate có nồng độ cao trong vú, nhất là trong mô ung thư vú, thành estrone rồi estrsdiol.

Cả 2 hoạt động đều cao trong mô vú, nhất là trong mô ung thư; nhưng hoạt động của sulfatase cao hơn hoạt động thơm hóa 130-200 lần.

Tibolone và các chất đồng phân ngăn chặn hoạt động của estrone sulfatase và 17β-hydroxysteroid dehydrogenase trong các tế bào mô đệm bình thường của tuyến vú và trong các tế bào ung thư vú, qua đó, tăng hoạt động estrone chuyển ngược lại thành estrone sulfate và ngăn chặn estrone chuyển thành estradiol. Do đó, tibolone giảm bớt kích thích của estrogen trên tuyến vú, giảm sự phát triển của tế bào ung thư.

Nghiên cứu LIBERATE (Livial Intervention following Breast cancer: Efficacy, Recurrence, And Tolerability Endpoints) là một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, đa quốc gia, nghiên cứu trên các phụ nữ có tiền sử ung thư vú đã được phẫu thuật trong vòng 5 năm trước đó, và hiện tại có thêm triệu chứng cơ năng của mãn kinh, được sử dụng tibolone hoặc placebo. Nghiên cứu đã dừng ngày 31 tháng 07 năm 2007, 5 tháng trước thời hạn dự kiến kết thúc vì có dấu hiệu tăng ung thư vú tái phát trên nhóm sử dụng tibolone nhiều hơn nhóm placebo (51 trên 1.000 so với 36 trên 1.000). Không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong, tai biến tim mạch cũng như ung thư sinh dục khác. Các triệu chứng rối loạn vận mạch, chất lượng cuộc sống và mật độ xương ở phụ nữ nhóm tibolone tốt hơn nhiều.

Tibolone không nên được chỉ định cho phụ nữ có tiền sử ung thư vú cho đến khi có thêm nghiên cứu khác chứng minh vô hại.

Tác dụng của tibolone trên xương

  • Tibolone giảm mất xương giống như estrogen hay estrogen-progestogen trên những bệnh nhân có lạc nội mạc tử cung hay u xơ tử cung được điều trị bằng GnRH đồng vận, tibolone được sử dụng như một add-back để giảm các triệu chứng mãn kinh như bốc nóng mặt cổ, mất xương.
  • Nghiên cứu LIFT (Long-term Intervention on Fractures with Tibolone) là một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, đa trung tâm ở 22 quốc gia trên 4.538 phụ nữ chia làm 2 nhóm sử dụng tibolone 1,25mg/ngày hoặc placebo trong 3 năm. Nghiên cứu cho thấy, tibolone giảm gãy xương cột sống đến 45% và giảm gãy các xương khác 25%.

Thuốc tương tự nội tiết - Phytoestrogens và tác dụng

Sau khi nghiên cứu WHI được công bố, cho rằng nội tiết thay thế có thể làm tăng số ung thư vú, tăng tai biến tim mạch, dù kết quả đã bị phê phán rất gắt gao từ phía các nhà nội tiết học sinh sản nổi tiếng trên thế giới, nhưng phụ nữ cũng dao động, ngưng sử dụng nội tiết và cố gắng chịu đựng những triệu chứng cơ năng của mãn kinh, giảm chất lượng cuộc sống. Nhân cơ hội nầy, một số các công ty đã dồn dập nghiên cứu, đưa ra nhiều sản phẩm gọi là thiên nhiên, không hóa chất, không phải là nội tiết nhưng có tác dụng điều trị được những triệu chứng khó chịu của mãn kinh. Phytoestrogens là một nhóm sản phẩm trong số đó.

Phytoestrogens là từ dùng để chỉ nhóm chất có tác dụng như estrogen hoặc các chất chuyển hóa có tính chất giống như estrogen, có mặt trong trên 300 loài thực vật, có thể gắn kết được với thụ thể estrogen. Đậu nành chứa nhiều phytoestrogens nhất.

Phytoestrogens gồm có 3 nhóm:

  • Isoflavones có trong đậu nành và một số đậu khác, có chứa daidzein, genistein, glycitin.
  • Lignans có trong ngũ cốc, rau cải và trái cây.
  • Coumestans có trong hạt hướng dương, giá đỗ.

Nhiều nghiên cứu cho thấy:

  • Phytoestrogens tác dụng không hơn placebo đối với việc điều trị các triệu chứng rối loạn vận mạch hay khô teo âm đạo. Tuy nhiên, một nghiên cứu của Hà Lan chứng minh được rằng, 2 viên phytoestrogens mỗi ngày trong 12 tuần lễ có thể làm giảm được cơn bốc nóng mặt cổ.
  • Isoflavone cùng với protein đậu nành có tác dụng làm tăng HDL-cholesterol, giảm LDL-cholesterol và cholesterol toàn phần, tăng giãn mạch và giảm xơ vữa mạch máu.
  • Nhiều nghiên cứu cho thấy, 120mg isoflavone mỗi ngày có thể tăng mật độ xương ở cột sống và cổ xương đùi.
  • Protein đậu nành có thể làm tăng trí nhớ và sự tập trung chú ý ở phụ nữ mãn kinh.
  • Những dân tộc tiêu thụ nhiều sản phẩm từ đậu nành có tần suất ung thư vú, ung thư nội mạc tử cung và ung thư tiền liệt tuyến thấp hơn các dân tộc khác. Ở phụ nữ Úc bị ung thư vú, nước tiểu có nồng độ thấp daidzein và genistein. Người tiêu thụ nhiều đậu nành, đậu hủ và có nồng độ isoflavones trong nước tiểu cao thì có tỷ lệ ung thư vú thấp, quan sát được trong cộng đồng người Singapore, Trung Quốc, Úc và ngay cả phụ nữ Mỹ có thói quen ăn nhiều đậu hũ.

Kết luận

Mãn kinh là khoảng thời gian có nhiều biến đổi trong cơ thể của phụ nữ sau tuổi sinh sản, về thể chất cũng như tâm lý, do buồng trứng không còn nang noãn phát triển, không còn tổng hợp được nội tiết sinh dục. Những thay đổi này có thể làm giảm chất lượng cuộc sống của phụ nữ. Cần có sự thông cảm từ phía gia đình, đồng nghiệp và cần các biện pháp can thiệp giúp cho phụ nữ có cuộc sống khỏe mạnh, vui tươi hơn. Tư vấn cho phụ nữ tuổi mãn kinh:

  • Cần luyện tập thể dục đều mỗi ngày.
  • Chế độ dinh dưỡng hợp lý.
  • Tránh các yếu tố nguy cơ cao như té ngã gây tăng gãy xương, uống rượu hay hút thuốc làm tăng nguy cơ ung thư sinh dục…
  • Giữ cho tinh thần thanh thản.
  • Sử dụng nội tiết phù hợp để điều trị những triệu chứng mãn kinh, nếu cần thiết, và theo tư vấn của các chuyên gia về mãn kinh. Chỉ định điều trị nội tiết phải được cân nhắc trên từng phụ nữ tuổi mãn kinh với những đặc điểm riêng của cá nhân họ, có thông tin đầy đủ về những thuận lợi và không thuận lợi của các loại nội tiết sử dụng, thảo luận mỗi lần tái khám để xem có tiếp tục hay ngưng sử dụng.
  • Qua tiếp xúc với phụ nữ tuổi mãn kinh cần quan tâm đến việc tầm soát các loại ung thư sinh dục để phát hiện sớm

BÁC SĨ PHỤ TRÁCH

  • BS. LÊ TRẦN ANH THƯ

    Bác sĩ CKI Sản phụ khoa trên 20 năm kinh nghiệm

    Giảng viên Trường Đại học Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng

    Nguyên trưởng khoa Chăm sóc sức khỏe bà mẹ-KHHGĐ, Trung tâm Chăm sóc Sức Khỏe Sinh Sản TP. Đà Nẵng

    Nguyên trưởng phòng khám sản bệnh viện Đa Khoa Hoàn Mỹ Đà Nẵng